Để chuẩn bị tốt cho việc xuất khẩu quả vải, nhãn tươi năm 2023, ngày 24/3/2023, Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật đã ban hành Công văn số 126/TTBVTV-NV Về việc tăng cường chỉ đạo sản xuất vải, nhãn phục vụ xuất khẩu năm 2023 gửi các cơ quan chuyên môn của huyện Thanh Hà và thành phố Chí Linh. Nội dung công văn như sau:
1. Về mã số vùng trồng và cơ sở đóng gói
- Tập trung chỉ đạo các cơ sở sơ chế, đóng gói phục vụ xuất khẩu trên địa bàn khẩn trương hoàn thiện cơ sở hạ tầng, trang thiết bị nhà xưởng, bao bì nhãn mác (thùng xốp, catton… có gắn mã số vùng trồng, mã số cơ sở đóng gói) đáp ứng yêu cầu của nước nhập khẩu, nhất là đối với Trung Quốc.
- Tiếp tục hoàn thiện hồ sơ đề nghị cấp mới mã số vùng trồng, cơ sở đóng gói để trình cấp theo quy định. Thường xuyên kiểm tra, giám sát các vùng trồng, cơ sở đóng gói vải, nhãn xuất khẩu đã được cấp mã số đảm bảo đáp ứng quy định của nước nhập khẩu.
2. Về chỉ đạo sản xuất
- Khẩn trương chỉ đạo, hướng dẫn nông dân tổ chức thực hiện sản xuất vải, nhãn theo quy trình an toàn, trong đó tập trung vào các vùng sản xuất đạt tiêu chuẩn VietGAP, GlobalGAP đã được cấp giấy chứng nhận và các vùng mới được Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phân bổ để thực hiện Đề án “Phát triển sản xuất nông nghiệp hàng hóa tập trung ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơgiai đoạn 2021-2025, định hướng đến năm 2030” năm 2023.
- Tăng cường công tác điều tra, dự tính dự báo tình hình sâu bệnh hại để chỉ đạo các xã, phường, thị trấn tăng cường tuyên truyền, đôn đốc nông dân thực hiện chăm sóc và phòng trừ sâu bệnh kịp thời, hiệu quả, đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm.
- Kiểm tra giám sát các vùng trồng, đặc biệt là các vùng phục vụ xuất khẩu. Trong quá trình kiểm tra, giám sát, lưu ý các nội dung: lập và lưu hồ sơ nhật ký sản xuất (khuyến khích sử dụng phần mềm Nhật ký đồng ruộng https://farmdiary.online/login để ghi nhật ký); quản lý đối tượng kiểm dịch thực vật của nước nhập khẩu; sử dụng thuốc bảo vệ thực vật (nhất là đảm bảo thời gian cách ly và tuyệt đối không sử dụng các loại thuốc bảo vệ thực vật mà nước nhập khẩu cấm sử dụng cho cây vải, trong đó có chất Tricyclazole mà Nhật Bản đang tăng cường kiểm soát dư lượng).
3. Công tác quản lý thuốc bảo vệ thực vật:
Tăng cường kiểm tra các hoạt động kinh doanh buôn bán, sử dụng thuốc bảo vệ thực vật trên địa bàn. Lưu ý hướng dẫn, quán triệt các đại lý/hộ kinh doanh thuốc bảo vệ thực vật tuyệt đối không bán, tư vấn, khuyến cáo nông dân sử dụng những loại thuốc bảo vệ thực vật có chứa hoạt chất Tricyclazole, Difenoconazole, Hexaconazole, Diniconazole, Mancozeb, Metiram Complex, Propineb, Thiosultap-Sodium (Nereistoxin), Profenofos, Quinalphos, Alpha-Cypermethrin Cypermethrin, Permethrin, Acetamiprid,… để phun trừ sâu bệnh cho vải, nhãn ở những vùng phục vụ xuất khẩu từ thời điểm trước thu hoạch 30 - 40 ngày trở về sau. Riêng vùng vải phục vụ xuất khẩu sang Nhật Bản tuyệt đối không được dùng hoạt chất Tricyclazole.
4. Chỉ đạo, hướng dẫn các tổ sản xuất, hợp tác xã, cơ sở đóng gói và phối hợp với các đơn vị liên quan trong việc thực hiện các nội dung phục vụ cho công tác kiểm tra trực tuyến vùng trồng và cơ sở đóng gói khi có yêu cầu của nước nhập khẩu (nhất là Trung Quốc).
5. Chủ động kết nối các doanh nghiệp, công ty thu mua xuất khẩu vải, nhãn ký kết hợp đồng và cam kết bao tiêu với các tổ, hợp tác xã sản xuất vải, nhãn ngay từ đầu vụ để có kế hoạch chỉ đạo, tổ chức sản xuất đảm bảo số lượng, chất lượng đáp ứng tiêu chuẩn xuất khẩu./.
CHI CỤC TRỒNG TRỌT VÀ BVTV